Trầm cảm – “Sứ giả của thần chết” đối với người bệnh sau đột quỵ

Sự phát triển của Y học ngày nay đã cải thiện đáng kể tỷ lệ tử vong do đột quỵ. Tuy nhiên, những người sống sót sau đó phải đối mặt với những di chứng mà đột quỵ để lại. Tự ti, chán nản, xa lánh người xung quanh,… khiến người bệnh dễ rơi vào trạng thái trầm cảm. Đây là vấn đề đáng lo ngại hiện nay trong quá trình điều trị phục hồi cho bệnh nhân đột quỵ.

16-08-2023 16:38
Theo dõi trên |

Nguy cơ trầm cảm ở người sau đột quỵ thể hiện ra sao?

Theo nghiên cứu điều tra 26.877 người trưởng thành đến từ 32 quốc gia và có độ tuổi trung bình là 62. Hơn 13.000 người tham gia đã bị đột quỵ. Kết quả cho thấy tỷ lệ những người bị đột quỵ có nhiều triệu chứng trầm cảm hơn so với những người không bị đột quỵ (18% so với 14%).

Tại sao sau đột quỵ, người bệnh dễ bị trầm cảm?

Được ví như “sứ giả của thần chết” – đột quỵ đến bất ngờ và nhanh chóng cướp lấy sinh mệnh của “nạn nhân” xấu số. Tuy hiện nay,  việc cấp cứu  bệnh nhân  đột quỵ đã có sự hỗ trợ của công nghệ tiên tiến và đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm. Tỷ lệ bệnh nhân được cứu sống do đột quỵ cũng tăng lên rất nhiều.

Nhưng sau khi người bệnh thoát khỏi tử vong, di chứng để lại vẫn vô cùng nặng nề cả về khả năng vận động, cảm giác lẫn tinh thần, vô tình trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có tới 80% tổng số bệnh nhân sau đột quỵ để lại di chứng, tùy thuộc vào vùng tổn thương, thời gian tổn thương.

Tình hình đáng chú ý thời gian gần đây, các bệnh nhân sau đột quỵ có tỷ lệ trầm cảm ngày một cao, trở nên phổ biến và thậm chí tệ hơn với những người bị trầm cảm trước đột quỵ. Xảy ra vấn đề là do người bệnh phải chịu một biến cố sức khỏe lớn, mỗi bệnh nhân có cách đối diện khác nhau với bệnh tật. Nhưng đa phần bệnh nhân sau đột quỵ thường có khoảng thời gian stress kéo dài, kết hợp tình trạng suy giảm khả năng nhận thức, cảm giác và vận động dẫn đến mất dần khả hòa nhập và chia sẻ. Tình trạng này kéo dài, bệnh nhân sau đột quỵ có nguy cơ cao mắc trầm cảm.

Xem thêm: 9 dấu hiệu trầm cảm của người bị đột quỵ

Trầm cảm gây ảnh hưởng như thế nào đến người sau đột quỵ?

Theo thống kê, có khoảng 30% người bệnh đột quỵ còn sống phải trải qua giai đoạn trầm cảm trong năm đầu tiên. Trong khi đó hơn 50% trong số này không được chẩn đoán hay điều trị. Những trường hợp này đa phần người bệnh và gia đình không nhận ra dấu hiệu trầm cảm vì quá chú tâm vào việc chăm sóc các thiếu hụt về chức năng nhìn thấy được về vận động.

Trầm cảm là yếu tố làm hạn chế khả năng phục hồi chức năng cũng như làm tăng nguy cơ tử vong gấp 10 lần ở người bệnh đột quỵ. Họ dễ bị mất động lực để theo đuổi quá trình điều trị phục hồi lâu dài, khiến đột quỵ có nguy cơ tái phát. Nếu trầm cảm ở giai đoạn nặng, người bệnh có thể có những ý định, hành động nguy hiểm gây hại cho bản thân, như tự sát.

Rối loạn lo âu hoặc rối loạn hoảng loạn: Khoảng 25% người bệnh đột quỵ và thiếu máu não thoáng qua bị rối loạn lo âu trong 5 năm đầu sau khi bệnh khởi phát. Ban đầu, những cơn lo lắng chỉ xuất hiện với tần suất vừa phải. Nếu không được phát hiện và điều trị thích hợp, cơn lo lắng có thể tiến triển thành những cơn rối loạn hoảng loạn kịch phát từng đợt kèm với những triệu chứng toàn thân như co quắp tay chân, thở nhanh và nông,..

Rối loạn cảm xúc giả hành: Tỷ lệ mắc rối loạn cảm xúc giả hành tăng cao ở những người bệnh tái phát đột quỵ nhiều lần. Đặc trưng của tình trạng này là sự bộc phát cảm xúc không phù hợp với hoàn cảnh. Chẳng hạn, người bệnh có thể cười trước sự việc buồn hoặc ngược lại, có thể khóc trước điều gì đó vui nhộn.

Các thay đổi cảm xúc khác: Sau đột quỵ, người bệnh có thể có những sự thay đổi về tính tình như dễ bực bội hơn, thiếu kiên nhẫn, tự ti, mặc cảm và sống nội tâm hơn. Nỗi lo sợ dựa dẫm, làm phiền người thân do mất đi khả năng hoạt động độc lập có thể là căn nguyên cho những thay đổi cảm xúc này.

Trường hợp không được cải thiện kịp thời và đúng cách, những tổn thương tâm lý có thể khiến người bệnh mất nhiều thời gian để phục hồi, mất chức năng nặng hơn những khiếm khuyết vốn có, thậm chí là tăng nguy cơ tái phát đột quỵ. Từ đó cản trở quá trình hội nhập cuộc sống của người bệnh sau đột quỵ.

Trải qua cơn đột quỵ, người bệnh đột quỵ thường phải đối mặt với hàng loạt di chứng trên cơ thể và cần nhiều thời gian để phục hồi, hoặc không thể phục hồi. Điều này ảnh hưởng đáng kể tới cuộc sống của người bệnh, thậm chí đảo ngược hoàn toàn các thói quen cùng vai trò trong gia đình và xã hội của họ. Từ đó, sự tự tin của họ dần bị mài mòn, trở thành sự mặc cảm khi phải sống phụ thuộc, tự ti về bản thân. Khi không thể vượt qua được những cảm xúc này trong thời gian dài sẽ hình thành bệnh trầm cảm.

Dấu hiệu đặc trưng nhận biết người sau đột quỵ đã bị trầm cảm

Sau đột quỵ, người bệnh thường thấy buồn chán, suy sụp, không còn thấy niềm vui, động lực và năng lượng sống. Luôn cảm giác mất giá trị bản thân, mất tự tin hoặc tội lỗi vì thấy mình là gánh nặng của người thân, thấy vô vọng vào tương lai.

Đồng thời, khi đã mắc chứng trầm cảm, người bệnh có thể bị giảm khả năng tập trung hoặc đưa ra các quyết định, mất hứng thú vào những việc trước đây mình rất yêu thích. Họ không muốn ra ngoài, tránh giao tiếp xã hội, mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều, chán ăn hoặc ăn quá nhiều.

Đặc biệt, nếu thấy người thân trong gia đình hay bạn bè có những biểu hiện: luôn cảm thấy tuyệt vọng, có ý định tự sát. Cụ thể, bệnh nhân thấy mất đi hoàn toàn hy vọng sống, thấy chán chường, vô vọng, cảm thấy gần như không thể chịu đựng nổi sự quá tải của các suy nghĩ tiêu cực; thường xuyên nghĩ đến cái chết hoặc cảm thấy đau khổ này không thể kết thúc; hoặc thấy đây là “nghiệp” mà mình phải gánh, là sự trả giá cho những sai lầm trong quá khứ. Đó là dấu hiệu đáng báo động, phải đưa người bệnh đến gặp bác sĩ ngay.

Xem thêm: Tâm lý học tích cực giúp giảm trầm cảm sau đột quỵ

Làm thế nào để khắc phục và phòng tránh trầm cảm sau đột quỵ?

Phần lớn người bệnh đột quỵ mặc cảm vì phải phụ thuộc vào sự chăm sóc của gia đình và người thân, coi mình là gánh nặng của xã hội. Diễn biến tâm lý và sức khỏe tinh thần của mỗi bệnh nhân là khác nhau, đa số trong trạng thái kìm kẹp, căng thẳng cảm xúc không thể giải tỏa. Khi đó họ thường biểu hiện tức giận vô cớ hoặc từ chối tiếp nhận chăm sóc, mang sắc thái u buồn.

Để quá trình phục hồi tổn thương tâm lý ở người bệnh đột quỵ đạt được hiệu quả, điều quan trọng nhất là người bệnh phải cố gắng tự cứu mình, tiếp đến là sự hỗ trợ từ người nhà và người thân xung quanh.

Với người bệnh, nên xây dựng và duy trì một đời sống năng động, tạo điều kiện để người bệnh tham gia các hội nhóm, gặp gỡ với những người xung quanh để lấy lại niềm vui và động lực sống.

Bên cạnh đó, cần động viên người bệnh chia sẻ về những vấn đề về sức khỏe tinh thần của mình. Thực hiện các hoạt động nhẹ nhàng giúp thư giãn cơ thể và tinh thần, như đọc sách, nghe nhạc, chăm sóc cây cối, thú cưng…

Tâm lý mặc cảm, tự ti về bản thân ở người bệnh đột quỵ là rất lớn, dẫn đến sự nóng nảy, cáu bẳn. Điểm quan trọng đối với việc chăm sóc bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm là cá nhân hóa điều trị, quan tâm đến sắc thái bệnh lý và thay đổi trong tâm lý bệnh nhân. Không để bệnh nhân tự coi mình như một gánh nặng hoặc là một cá thể vô dụng. Luôn động viên và chăm sóc tận tình, dùng tâm lý điều trị tâm lý.

Trường hợp phát hiện người bệnh có dấu hiệu rối loạn cảm xúc, trầm cảm nặng người nhà cần đưa ngay bệnh nhân đến bệnh viện để được can thiệp kịp thời, tránh các hành vi tiêu cực.

 BS.CK1 Trịnh Ngọc Bình – Phó ban AloBacsi Cộng đồng hiệu đính

  • Từ khóa:
Bài toán “điểm nghẽn” cấp cứu đột quỵ trước viện ở khu vực phía Bắc

Bài toán “điểm nghẽn” cấp cứu đột quỵ trước viện ở khu vực phía Bắc

PGS.TS.BS Mai Duy Tôn nhấn mạnh, mặc dù mạng lưới điều trị đột quỵ tại miền Bắc đang có bước phát triển mạnh, nhiều trung tâm, khoa, đơn vị đột quỵ được thành lập nhưng vẫn còn nhiều “điểm nghẽn” cần tháo gỡ, đặc biệt là cấp cứu trước viện, đào tạo nhân lực và hành lang pháp lý.

Chăm sóc đột quỵ

Dấu hiệu đột quỵ

Tầm soát đột quỵ