Thuốc điều trị COVID-19 – Molnupiravir liệu có tồn tại được như thời kỳ đầu?

Trong quá trình tìm kiếm các phương pháp điều trị COVID-19 hiệu quả, nhiều loại thuốc đã không đạt được lời hứa ban đầu. Molnupiravir kháng vi-rút đã hoạt động tốt trong các thử nghiệm, làm giảm tỷ lệ nhập viện và tử vong ở những người có nguy cơ cao. Mới đây, tạp chí Medical News Today đã xem xét lại bằng chứng và những phát hiện mới để xem liệu molnupiravir có nhận ra tiềm năng của nó hay không.

13-03-2022 20:59
Theo dõi trên |

Thuốc thử nghiệm molnupiravir đã mang lại hy vọng tươi mới trong cuộc chiến chống lại COVID-19. Nhưng chúng ta biết gì về nó cho đến nay? (Ảnh: Jordan Lye / Getty Images)

Vào tháng 10 năm 2021, một thử nghiệm toàn cầu đã điều tra một loại thuốc vi-rút thử nghiệm có tên là molnupiravir, có nhãn hiệu Lagevrio bên ngoài Hoa Kỳ.

Nghiên cứu được dẫn đầu bởi công ty dược phẩm Merck – được gọi là MSD bên ngoài Hoa Kỳ và Canada – và Ridgeback Therapeutics.

Các nhà khoa học phát hiện ra rằng loại thuốc này làm giảm khoảng 50% nguy cơ nhập viện hoặc tử vong do COVID-19 .

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hiện đã khuyến cáo có điều kiện việc sử dụng thuốc này cho một số người bị COVID-19 có nguy cơ nhập viện cao nhất.

Thử nghiệm ban đầu

Trong thử nghiệm ngẫu nhiên ban đầu ở giai đoạn 3, các nhà khoa học đã tiêm molnupiravir hoặc giả dược cho 775 người. Tất cả những người tham gia đều có kết quả xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2 và trải qua các triệu chứng COVID-19 từ nhẹ đến trung bình đã bắt đầu không quá 5 ngày trước đó.

Mỗi người tham gia đều có ít nhất một yếu tố nguy cơ mắc COVID-19 nghiêm trọng nhưng chưa nhập viện. Các yếu tố nguy cơ bao gồm béo phì, trên 60 tuổi, tiểu đường và bệnh tim.

Các nhà khoa học đã phân bổ ngẫu nhiên mỗi người trong số 775 người tham gia vào một trong hai nhóm. Một nhóm nhận được molnupiravir, và nhóm kia dùng giả dược. Những người tham gia uống viên nang hai lần mỗi ngày trong 5 ngày.

Trong số 385 bệnh nhân dùng molnupiravir, 28 người nhập viện, so với 53 người trong nhóm dùng giả dược. Tám trong số những người tham gia nhóm giả dược đã chết, trong khi tất cả những người được sử dụng thuốc kháng vi-rút đều sống sót vào cuối thời gian nghiên cứu 29 ngày.

Những kết quả tích cực vượt trội này đã khiến việc tuyển dụng vào nghiên cứu bị dừng lại. Vào tháng 12 năm 2021, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã cấp cho nhà sản xuất Merck giấy phép sử dụng khẩn cấp.

Chính phủ Vương quốc Anh đã đăng ký hơn 2,2 triệu khóa học thuốc kháng vi-rút. Liên minh Châu Âu vẫn chưa cho phép sử dụng molnupiravir nhưng gần đây đã hoàn thành việc xem xét phương pháp điều trị nhằm mục đích có thể cho phép.

Kết quả nghiên cứu đã làm nảy sinh sự lạc quan. Giáo sư Tim Spector, giáo sư dịch tễ học di truyền tại King’s College London, nói với Medical News Today, “Đây là một kết quả thú vị từ một nghiên cứu ngẫu nhiên trên 775 bệnh nhân, cho thấy tác dụng chính trong việc giảm mức độ nghiêm trọng và tử vong do một viên thuốc đơn giản được đưa vào lúc bắt đầu nhiễm trùng.”

Molnupiravir là gì?

Molnupiravir thuộc nhóm thuốc kháng vi-rút được gọi là ribonucleoside gây đột biến. Những thay đổi này làm thay đổi vật chất di truyền của vi-rút và tạo ra các lỗi để ngăn cản sự sao chép và phiên mã của bộ gen vi-rút.

Bên trong tế bào chủ, molnupiravir được chuyển thành molnupiravir triphosphat. Khi vi rút cố gắng sao chép, molnupiravir triphosphat được kết hợp vào RNA của vi rút thay vì nucleoside cytidine gây ra đột biến.

Sự đột biến dừng lại vi rút không sao chép. Điều này giữ cho số lượng vi rút trong cơ thể ở mức thấp và sẽ làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Không giống như hầu hết các phương pháp điều trị khác, cho đến nay, molnupiravir là một viên thuốc uống mà một người có thể sử dụng bên ngoài cơ sở y tế.

Trong các thử nghiệm, điều trị bằng kháng thể đơn dòng sotrovimab hiệu quả hơn, giảm số lần nhập viện và tử vong xuống dưới 1%, so với gần 7% đối với molnupiravir. Tuy nhiên, một người phải nhận nó qua đường tĩnh mạch, có nghĩa là trực tiếp vào tĩnh mạch, điều này hạn chế việc sử dụng nó bên ngoài môi trường bệnh viện.

“Các phương pháp điều trị kháng vi-rút có thể được thực hiện tại nhà để ngăn những người nhiễm COVID-19 không phải đến bệnh viện là rất cần thiết. Chúng tôi rất được khuyến khích bởi các kết quả từ phân tích tạm thời và hy vọng molnupiravir, nếu được phép sử dụng, có thể tạo ra tác động sâu sắc trong việc kiểm soát đại dịch.” – Wendy Holman, giám đốc điều hành của Ridgeback Biotherapeutics.

‘Không phải là một viên thuốc ma thuật’

Giáo sư Sir Peter Horby, giáo sư về các bệnh truyền nhiễm mới và sức khỏe toàn cầu tại Đại học Oxford, cho hay: “Một loại thuốc kháng vi-rút an toàn, giá cả phải chăng và hiệu quả sẽ là một bước tiến lớn trong cuộc chiến chống lại COVID-19.”

Tuy nhiên, ông vẫn lưu ý: “Cần nhớ rằng rủi ro tuyệt đối là 14% giảm xuống còn 7%, vì vậy khá nhiều người cần được điều trị để ngăn ngừa một lần nhập viện hoặc tử vong. Điều này có nghĩa là thuốc cần phải rất an toàn và giá cả phải chăng ”.

Sự thận trọng này đã được nhắc lại bởi Giáo sư William Schaffner, giáo sư về các bệnh truyền nhiễm tại Đại học Y khoa Vanderbilt: “Trong các nghiên cứu ở những bệnh nhân có nguy cơ rất cao, nó làm giảm mức độ bệnh nghiêm trọng chỉ còn một nửa. Nó không phải là một viên thuốc ma thuật ”.

Ông nói thêm: “Trong môi trường nghiên cứu, bạn có thể đảm bảo rằng mọi người uống thuốc theo chỉ dẫn. Trong thực tế, thường có tỷ lệ thành công thấp hơn so với thử nghiệm lâm sàng ”.

Thật vậy, kể từ khi công bố kết quả thử nghiệm ban đầu vào tháng 10, Merck đã công bố bản cập nhật dựa trên dữ liệu đầy đủ hơn từ tất cả những người tham gia vào nghiên cứu của Merck – tổng cộng 1.433 người.

Phân tích dữ liệu mới đã làm giảm nguy cơ nhập viện tương đối với COVID-19 xuống 30% từ 50% ban đầu.

So sánh như thế nào?

Một thử nghiệm giai đoạn 3 ngẫu nhiên có đối chứng, được xuất bản vào tháng 2 năm 2022, xác nhận rằng molnupiravir đã làm giảm khả năng nhập viện hoặc tử vong ở những người có nguy cơ cao mắc COVID-19.

Trong số 1.433 người tham gia, 6,8% của nhóm điều trị và 9,7% của nhóm dùng giả dược phải nhập viện hoặc tử vong vào ngày 29 của thử nghiệm. Các nhà nghiên cứu đã báo cáo một ca tử vong ở nhóm dùng molnupiravir và chín ca ở nhóm dùng giả dược.

Tuy nhiên, molnupiravir không hoạt động tốt như Paxlovid, do công ty dược đối thủ Pfizer sản xuất. Trong một thử nghiệm với 2.246 người tham gia có nguy cơ cao, 0,7% những người dùng Paxlovid phải nhập viện và không ai tử vong, và 6,5% những người dùng giả dược phải nhập viện hoặc tử vong.

Cả hai loại thuốc này đều là dạng viên uống. Molnupiravir được dùng 4 viên x 2 lần/ngày và Paxlovid là 3 viên x 2 lần/ngày. Molnupiravir đắt hơn, 712 USD cho liệu trình 5 ngày, so với $ 530 cho Paxlovid. Cả hai loại thuốc kháng vi-rút phải được thực hiện trong vòng 5 ngày kể từ khi có triệu chứng đầu tiên.

“Ở Mỹ, chúng tôi có cả molnupiravir và Paxlovid. Thành thật mà nói, cảm nhận chung là Paxlovid hiệu quả hơn.” – GS William Schaffner

Khuyến nghị của WHO

WHO dựa trên khuyến nghị có điều kiện của mình dựa trên kết quả từ sáu thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng với tổng số 4.796 người tham gia.

Tuy nhiên, vì thiếu thông tin an toàn, các bác sĩ chỉ nên kê đơn molnupiravir cho những bệnh nhân bị COVID-19 “không nghiêm trọng” có nguy cơ nhập viện cao nhất. Những cá nhân này bao gồm:

  • Người cao tuổi
  • Những người chưa được chủng ngừa COVID-19
  • Những người bị suy giảm miễn dịch
  • Những người sống với tình trạng mãn tính

Một chuyên gia chăm sóc sức khỏe sẽ cần phải điều trị cho một người trong vòng 5 ngày kể từ khi triệu chứng khởi phát.

Tiến sĩ Peter English, một nhà tư vấn đã nghỉ hưu về bệnh truyền nhiễm và từng là chủ tịch Ủy ban Y tế Y tế Công cộng của Hiệp hội Y khoa Anh, bày tỏ nghi ngờ, “Vấn đề đối với thuốc kháng vi-rút như molnupiravir của Merck là chúng phải được sử dụng trước khi mọi người được coi là bị ốm đến mức cần bất cứ điều gì khác ngoài điều trị tự chăm sóc theo triệu chứng.”

Ông cho biết thêm: “Trừ khi một loại thuốc kháng vi-rút có thể được sản xuất rẻ và an toàn đến mức có thể được sử dụng ‘theo yêu cầu’ của những người có COVID-19, thì nó không có khả năng hữu dụng rộng rãi.”

Lo ngại về an toàn

Một số chuyên gia đã đưa ra lo ngại về sự an toàn của một loại thuốc hoạt động bằng cách gây đột biến.

Vì molnupiravir làm cho RNA của vi rút đột biến, nên có những lo ngại rằng nó cũng có thể gây ra đột biến trong tế bào vật chủ. Một nghiên cứu trong nuôi cấy tế bào động vật đã tìm thấy đột biến trong các tế bào được điều trị bằng molnupiravir.

Điều này đã dẫn đến những lo lắng rằng thuốc có thể gây ung thư hoặc bất thường khi sinh. Các tác giả của nghiên cứu tế bào động vật khuyến cáo rằng tiềm năng gây đột biến này được đánh giá trong cơ thể sống, tập trung vào các tế bào phân chia nhanh chóng. Ngoài ra, họ khuyến nghị giám sát để đánh giá tiềm năng chất độc gen phản ứng phụ.

“Điều đáng chú ý là những người tham gia thử nghiệm đã được hướng dẫn kiêng quan hệ tình dục khác giới. Mặc dù đây là cách làm thường xuyên với một số loại thuốc khác, chẳng hạn như hóa trị liệu ung thư, nhưng nó cho thấy rằng thuốc có khả năng gây dị tật bẩm sinh nếu ai đó mang thai”. – Tiến sĩ Simon Clarke, phó giáo sư vi sinh tế bào tại Đại học Reading

WHO tuyên bố rằng các chuyên gia chăm sóc sức khỏe không nên kê đơn molnupiravir cho trẻ em và người mang thai và cho con bú, vì không có đủ dữ liệu an toàn về tác dụng của thuốc.

Bất kỳ ai đã nhận được đơn thuốc molnupiravir nên sử dụng biện pháp tránh thai để tránh mang thai. Nghiên cứu động vật đã gợi ý rằng molnupiravir có thể gây hại cho thai nhi khi dùng cho người mang thai.

Không có nghiên cứu nào được công bố cho đến nay đã báo cáo bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào.

Các tùy chọn tốt hơn có sẵn hiện nay?

Trong thử nghiệm này, molnupiravir có hiệu quả chống lại tất cả các biến thể, bao gồm cả biến thể Delta, mà một nghiên cứu cho thấy có nguy cơ nhập viện chăm sóc đặc biệt tăng 235% so với biến thể ban đầu.

Một nghiên cứu trong ống nghiệm đã phát hiện ra rằng cả molnupiravir và Paxlovid đều có hiệu quả chống lại biến thể Omicron.

Kết quả khả quan được áp dụng cho những người nhận được molnupiravir ngay sau khi bắt đầu các triệu chứng nhẹ đến trung bình.

Một thử nghiệm trước đây cho thấy không mang lại lợi ích gì khi cho những người đã sử dụng COVID-19 vào bệnh viện. WHO không khuyến cáo dùng molnupiravir cho những người đã nhập viện.

“Tôi luôn tỏ ra lạc quan một chút về molnupiravir, nhưng tôi nghĩ rằng đối với những người lớn tuổi, già yếu, đặc biệt là suy giảm miễn dịch, nếu molnupiravir là loại thuốc duy nhất có sẵn, tôi sẽ bảo họ chạy chứ không phải đi bộ. Đưa thuốc vào người càng nhanh càng tốt, vì nó đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ mắc bệnh hiểm nghèo.” – GS William Schaffner

Giáo sư Spector nằm trong số những người muốn xem thêm kết quả thử nghiệm. Ông nói: “Chúng tôi được thông báo là có ít tác dụng phụ, nhưng sẽ rất tốt nếu biết thêm chi tiết và xem một ấn phẩm được đồng nghiệp đánh giá đầy đủ. Nhưng nếu điều này xảy ra, nó sẽ là một yếu tố thay đổi cuộc chơi chính đối với việc điều trị COVID-19 và có thể là các loại vi rút khác”.

Tuy nhiên, khi được yêu cầu cập nhật sau nhiều lần thử nghiệm hơn, kết quả molnupiravir ít thuyết phục hơn. Khi nhìn thấy kết quả mới nhất, loại thuốc này có vẻ kém ấn tượng hơn, và ngay cả khi được dành cho những bệnh nhân có nguy cơ cao, cũng có thể có các lựa chọn kháng vi-rút tốt hơn.”

T.N, theo MedicalNewsToday

Số ca đột quỵ tăng gấp 3 lần so với ngày thường tại Bệnh viện Bạch Mai dịp Tết Nguyên Đán

Số ca đột quỵ tăng gấp 3 lần so với ngày thường tại Bệnh viện Bạch Mai dịp Tết Nguyên Đán

Bệnh viện Bạch Mai tiếp nhận 566 ca đột quỵ trong 9 ngày nghỉ Tết, cao gấp 3 lần so với ngày thường. Trong đó, số bệnh nhân trẻ tuổi nhập viện do đột quỵ chiếm tới 45%.

Multimedia

Theo dõi trên:

Video

Nhịp tim khỏe mạnh, đón tết Ất Tỵ 2025 cùng TS.BS Trần Hòa

Tết đến là dịp đoàn viên, ăn uống thỏa sức, tuy nhiên người bệnh tim mạch luôn phải đối mặt với nhiều nguy cơ, đặc biệt là mỗi dịp lễ Tết khi chế độ ăn uống, sinh hoạt thay đổi đột ngột. Vậy làm thế nào để có nhịp tim khỏe mạnh, đón Tết an vui? Thắc mắc sẽ được TS.BS Trần Hòa – Phó khoa Tim mạch Can thiệp Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM giải đáp sau đây.

Chăm sóc đột quỵ

Dấu hiệu đột quỵ

Tầm soát đột quỵ