Những người sống sót sau đột quỵ có nguy cơ tự tử cao hơn
Một nghiên cứu mới cho thấy những người sống sót sau cơn đột quỵ có nguy cơ tìm cách tự tử cao hơn gấp đôi và họ cũng có khả năng chết do tự tử cao hơn nhiều so với những người không bị đột quỵ.
Những người sống sót sau đột quỵ có nhiều khả năng cố gắng tự tử hoặc chết bằng cách tự tử hơn những người không bị đột quỵ, theo một đánh giá được công bố trên tạp chí Stroke.
Để phân tích, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra dữ liệu từ 23 nghiên cứu được công bố trước đây với tổng số hơn hai triệu người sống sót sau đột quỵ. Nhìn chung, 5.563 người trong các nghiên cứu này đã cố gắng tự tử hoặc chết bằng cách tự sát.
So với những người chưa từng bị đột quỵ, những người sống sót sau cơn đột quỵ có nguy cơ tìm cách tự tử cao hơn 2,11 lần và khả năng tử vong do tự tử cao hơn 61%.
Tác giả chính của nghiên cứu, Manav Vyas, MBBS, một nhà thần kinh học tại Trung tâm Khoa học Sức khỏe Sunnybrook cho biết: “Những người sống sót sau đột quỵ có những hậu quả về sức khỏe thể chất, nhận thức và tâm thần có thể khiến họ có nguy cơ tự tử cao hơn.”
Kết quả nghiên cứu cho thấy vài tháng đầu tiên sau khi bị đột quỵ có thể là yếu tố quan trọng nhất để theo dõi sức khỏe tâm thần. Nghiên cứu cho thấy, với mỗi năm trôi qua sau cơn đột quỵ, nguy cơ tự tử giảm 3%.
Mặc dù nghiên cứu không xác định điều gì có thể khiến nguy cơ tự tử tăng đột biến sau đột quỵ hoặc suy giảm theo thời gian, nhưng có thể một số yếu tố đóng một vai trò nào đó, bao gồm mức độ tàn tật nghiêm trọng do đột quỵ cùng với tiền sử trầm cảm hoặc tâm trạng.
Những người sống sót sau đột quỵ có những hậu quả về sức khỏe thể chất, nhận thức và tâm thần có thể khiến họ có nguy cơ tự tử cao hơn.
Mục lục
Nghiên cứu liên quan đến tự tử sau đột quỵ
Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Quốc tế về Đột quỵ thì có khoảng 1/3 người sống sót sau cơn đột quỵ bị trầm cảm. Nghiên cứu này cho thấy, thậm chí 5 năm sau khi bị đột quỵ, hơn 1/5 người sống sót bị trầm cảm.
Một nghiên cứu riêng biệt được công bố trên Tạp chí Thần kinh học, Phẫu thuật Thần kinh và Tâm thần học cho thấy trầm cảm là một trong những yếu tố dự báo nguy cơ tự tử lớn nhất ở những người sống sót sau đột quỵ. Trong nghiên cứu này, gần một trong 8 người sống sót sau đột quỵ có ý định tự tử.
So với những người sống sót sau đột quỵ chưa từng bị trầm cảm, những người hiện đang bị trầm cảm có nguy cơ tự tử cao hơn gần 12 lần và những người có tiền sử trầm cảm có nguy cơ cao hơn gần 7 lần, nghiên cứu này cho thấy. Những người bị đột quỵ lặp lại, hoặc những người bị khuyết tật thể chất nhiều hơn hoặc suy giảm nhận thức cũng tăng nguy cơ có ý định tự tử.
Vyas nói: “Nhiều người sống sót sau cơn đột quỵ có thể không thể giao tiếp được vì thiếu hụt ngôn ngữ sau đột quỵ, và vì vậy điều quan trọng là phải đánh giá tâm trạng của họ và sàng lọc chứng trầm cảm cũng như ý định tự tử.
Nguyên nhân và triệu chứng của bệnh trầm cảm sau đột quỵ
Theo Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ, đột quỵ có thể gây ra những thay đổi hóa học trong não làm cản trở khả năng cảm nhận cảm xúc tích cực và khuếch đại cảm xúc tiêu cực. Trong khi ý nghĩ tự tử là một dấu hiệu của bệnh trầm cảm, ASA lưu ý rằng một số triệu chứng khác có thể phổ biến ở những người sống sót sau đột quỵ:
- Tâm trạng buồn bã hoặc lo lắng dai dẳng
- Cảm thấy vô vọng, vô giá trị hoặc bất lực
- Thiếu quan tâm đến sở thích hoặc hoạt động
- Cảm thấy mệt mỏi
- Khó tập trung, ghi nhớ và ra quyết định
- Mất ngủ
- Thay đổi đáng kể về sự thèm ăn hoặc cân nặng
Không giống như một số bệnh mãn tính dẫn đến tàn tật dần dần trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm, đột quỵ có thể buộc bệnh nhân phải điều chỉnh với những thay đổi đột ngột, đáng kể về khả năng thể chất và tinh thần của họ dường như chỉ trong một sớm một chiều.
Anjail Sharrief, MD, MPH, giám đốc phòng chống đột quỵ tại Viện cho biết: “Sự căng thẳng liên quan đến điều đó có thể dẫn đến trầm cảm và gia tăng suy nghĩ muốn làm tổn thương bản thân hoặc cảm thấy như họ không muốn ở bên cạnh nữa,” Anjail Sharrief, MD, MPH, giám đốc phòng chống đột quỵ tại Viện cho biết.
Điều trị trầm cảm có thể giúp phục hồi đột quỵ như thế nào?
Nhiều người sống sót sau đột quỵ cần được phục hồi chức năng để giúp xây dựng lại các kỹ năng bị tổn hại do đột quỵ. Điều này có thể bao gồm liệu pháp ngôn ngữ để cải thiện kỹ năng giao tiếp, vật lý trị liệu để xây dựng lại kỹ năng phối hợp và vận động, và liệu pháp vận động để giúp thực hiện các hoạt động hàng ngày như ăn uống, tắm và mặc quần áo, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) .
Trầm cảm không được điều trị có thể làm cho những người sống sót sau đột quỵ khó phục hồi chức năng hơn; nhiều triệu chứng của bệnh trầm cảm khiến việc hoàn thành các bài tập trong trị liệu và tập trung vào việc hồi phục trở nên khó khăn. Đồng thời, điều trị trầm cảm có thể giúp phục hồi, theo CDC.
Vyas nói: “Nhận thức được rằng đột quỵ có thể làm tăng nguy cơ suy nghĩ tự tử hoặc cố gắng tự tử sẽ giúp những người sống sót sau đột quỵ, gia đình của họ và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe xác định và hy vọng giảm thiểu những rủi ro này.
Diệu Nhi
Inforgraphic – Cách xử trí khi xảy ra đột quỵ
Hậu quả sau đột quỵ phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết của người thân hoặc người xung quanh của người bị đột quỵ. Những kiến thức dưới đây sẽ góp phần giúp người bị đột quỵ có thể được đưa đến bệnh viện sớm hơn, cơ hội phục hồi cao hơn.
Multimedia
Theo dõi trên:Video
S.I.S Cần Thơ cứu sống nữ bệnh nhân 53 tuổi suy hô hấp cấp và viêm phổi nặng
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế S.I.S Cần Thơ vừa cứu sống nữ bệnh nhân 53 tuổi “Thoát khỏi của tử” do căn bệnh suy hô hấp cấp và viêm phổi nặng. Sau 9 ngày điều trị không hiệu quả tại bệnh viện địa phương, bệnh nhân đã được hồi sinh nhờ sự can thiệp quyết liệt của ekip bác sĩ tại S.I.S Cần Thơ.
-
7 tình huống khiến đường huyết tăng vọt có thể bạn chưa biết
-
Người tiểu đường tập thể dục lúc nào trong ngày tốt nhất?
-
Món ăn vặt giúp kéo dài tuổi thọ, bảo vệ tim mạch
-
8 cách cải thiện trí nhớ sau đột quỵ
-
Những bất thường khi làm “chuyện ấy” có thể báo hiệu bệnh tiểu đường
-
6 thực phẩm giúp ‘quét sạch’ mỡ máu, hỗ trợ sức khỏe tim