Hẹp động mạch cảnh: Đừng để quá muộn! 

Hẹp động mạch cảnh hay bệnh động mạch vành đề cập đến sự thu hẹp của các động mạch cảnh, là các động mạch chính ở cổ cung cấp máu từ tim cho não. Nguyên nhân phổ biến của tình trạng này là do xơ vữa động mạch, khiến chất béo tích tụ trong thành trong của mạch máu và cuối cùng là thu hẹp lòng mạch hoặc không gian trong động mạch.

23-02-2022 19:03
Theo dõi trên |

Hẹp động mạch cảnh xảy ra khi mảng xơ vữa (hình thành từ cholesterol, calcium, và mô xơ) phát triển dày lên từ thành mạch, làm giảm lưu lượng dòng máu tới não. (Ảnh minh hoạ)

Các yếu tố rủi ro của hẹp động mạch cảnh

Các động mạch cảnh có thể bị tắc nghẽn hoàn toàn, làm giảm lưu lượng máu đến não và tăng nguy cơ đột quỵ. Hẹp động mạch cảnh chiếm khoảng 30% các trường hợp đột quỵ.

Khả năng phát triển bệnh hẹp động mạch vành tăng lên do một số yếu tố nguy cơ bao gồm: huyết áp cao, người cao tuổi, bệnh tiểu đường, hút thuốc, béo phì, tiền sử gia đình bị xơ vữa động mạch, cholesterol cao, thiếu hoạt động thể chất.

Nam giới dưới 75 tuổi có nguy cơ mắc bệnh hẹp động mạch cảnh cao hơn so với phụ nữ trong độ tuổi này. Sau 75 tuổi, phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

Triệu chứng hẹp động mạch cảnh

Bệnh nhân hẹp động mạch vành thường không có bất kỳ triệu chứng nào. Xơ vữa động mạch tiến triển theo thời gian và chất béo tích tụ trong động mạch mà không gây ra bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào cho đến khi bệnh nhân có nguy cơ bị cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA), đây thường là dấu hiệu đầu tiên mà bệnh nhân mắc phải.

Cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua là do cục máu đông hình thành trong động mạch bị ảnh hưởng, vỡ ra và di chuyển về phía não, nơi nó chặn một động mạch nhỏ hơn. Điều này có thể gây ra các triệu chứng tương tự như những triệu chứng gặp trong đột quỵ như tê liệt một bên cơ thể, khó nói hoặc phản ứng, lú lẫn, khó giữ thăng bằng, đau đầu và mờ mắt.

Không giống như đột quỵ, cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn và thường tự khỏi trong vài giờ. Tuy nhiên, biến cố là dấu hiệu cảnh báo người bệnh có nguy cơ bị đột quỵ, có thể dẫn đến tàn phế nặng, thậm chí tử vong. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người trước đây đã bị cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua có nguy cơ bị đột quỵ nặng gấp 10 lần so với những người chưa trải qua cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua.

Phòng ngừa đột quỵ – Bệnh động mạch cảnh

Chẩn đoán

Chẩn đoán hẹp động mạch cảnh thường có thể bao gồm đánh giá ban đầu của bác sĩ lâm sàng điều trị, siêu âm động mạch cảnh, chụp động mạch cảnh, chụp cắt lớp vi tính (CT), cũng như chụp mạch cộng hưởng từ.

Đánh giá sức khỏe ban đầu

Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sẽ có được thông tin chi tiết về các triệu chứng của bệnh nhân, tiền sử bệnh của họ và cũng thực hiện khám sức khỏe. Bác sĩ sẽ quan tâm đến bất kỳ yếu tố nguy cơ nào đối với bệnh động mạch cảnh, cũng như các triệu chứng chỉ ra cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua.

Bác sĩ có thể nghe động mạch ở cổ bằng ống nghe để kiểm tra âm thanh bất thường được gọi là “bruit”. Âm thanh này có thể xảy ra khi dòng máu chảy rối loạn do bệnh động mạch cảnh. Phát hiện tắc động mạch cảnh thường dẫn đến việc chuyển tuyến để siêu âm động mạch cảnh để đánh giá huyết áp và lưu lượng máu trong động mạch.

Ngoài siêu âm này, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể yêu cầu chụp CT hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) để kiểm tra bằng chứng của đột quỵ hoặc các tổn thương khác. Chụp mạch CT cũng có thể được chỉ định, cũng được sử dụng để đánh giá lưu lượng máu trong động mạch.

Siêu âm động mạch cảnh

Siêu âm động mạch cảnh là xét nghiệm được sử dụng phổ biến nhất để xác định xem có bị hẹp động mạch vành hay không. Đây là một kỹ thuật không xâm lấn, không đau, sử dụng sóng âm thanh cường độ cao để tạo ra hình ảnh cấu trúc của động mạch cảnh.

Kỹ thuật hình ảnh này được sử dụng để kiểm tra sự tích tụ mảng bám, cục máu đông và thu hẹp động mạch. Có thể đánh giá số lượng và tốc độ máu di chuyển qua các mạch bằng siêu âm Doppler.

Chụp động mạch cảnh

Chụp động mạch cảnh là một thủ thuật xâm lấn bao gồm việc đưa một ống thông vào tĩnh mạch ở cánh tay hoặc chân của bệnh nhân mà sau đó được dẫn hướng tới các động mạch cảnh. Thuốc cản quang sau đó được đưa qua ống thông và chụp ảnh X-quang động mạch theo thời gian thực. Điều này cho phép bác sĩ hình dung cấu trúc giải phẫu của các động mạch này và phát hiện bất kỳ bất thường nào.

Chụp CT

Chụp CT sử dụng tia X kết hợp với công nghệ máy tính để tạo ra hình ảnh chi tiết của đầu và cổ. Kỹ thuật này có thể được sử dụng để tạo ra hình ảnh hai chiều (2D) và ba chiều (3D) mặt cắt ngang của động mạch cảnh và não.

Chụp CT sử dụng bức xạ để tạo ra hình ảnh. Do đó, rủi ro đối với bệnh nhân được cân nhắc so với lợi ích trước khi thủ thuật này được thực hiện.

Chụp mạch cộng hưởng từ

Chụp mạch cộng hưởng từ sử dụng sóng vô tuyến và từ trường để tạo ra hình ảnh chi tiết của động mạch cảnh và não. Thủ tục này thường có thể phát hiện các biến cố tim mạch thậm chí nhỏ đã xảy ra trong não. Thuốc cản quang cũng có thể được sử dụng để làm nổi bật các động mạch.

Điều trị hẹp động mạch cảnh

Nếu một bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh động mạch cảnh, thì việc điều trị sẽ được bắt đầu. Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng hẹp.

Đối với một số bệnh nhân, thay đổi lối sống và dùng thuốc có thể đủ để cải thiện tình trạng bệnh. Tương tự, những bệnh nhân khác có thể yêu cầu một thủ thuật xâm lấn tối thiểu gọi là nong động mạch cảnh và đặt stent để mở động mạch. Một số bệnh nhân có thể yêu cầu một can thiệp xâm lấn hơn được gọi là phẫu thuật cắt nội mạc động mạch cảnh để loại bỏ tắc nghẽn trong động mạch.

Thi Nguyên

Đột tử khi chơi thể thao liệu có thể phòng tránh?

Đột tử khi chơi thể thao liệu có thể phòng tránh?

Đột tử khi chơi thể thao là vấn đề đang được quan tâm khi ngày càng có nhiều trường hợp đột tử tại các giải thi đấu, đặc biệt là marathon. Vậy đột tử khi chơi thể thao có phòng ngừa được không? Câu trả lời sẽ được TS.BS Phan Vương Huy Đổng ­ Chủ tịch Liên chi hội Y học thể thao TPHCM giải đáp trong video dưới đây.

Chăm sóc đột quỵ

Dấu hiệu đột quỵ

Tầm soát đột quỵ